Thứ Năm, 14 tháng 2, 2019

Đông đảo du khách về dự lễ hội đền Mẫu Đồng Đăng

Ngày 14/2 ( tức ngày mùng 10 tháng Giêng), tại thị trấn biên giới Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, hàng nghìn người dân cùng du khách tour du xuân 2019 trong nước và quốc tế đã về trẩy hội đền Mẫu - một trong những lễ hội lớn nhất ở Lạng Sơn.


Theo ghi nhận, ngay từ sáng sớm đền Mẫu Đồng Đăng đã nhộn nhịp các hoạt động văn hóa tín ngưỡng. Mọi người đến đây để cầu mong sự an bình, thịnh vượng, thưởng ngoạn và chiêm bái cảnh sắc, thưởng thức văn hóa, ẩm thực độc đáo của Xứ Lạng. Các ngả đường dẫn tới thị trấn Đồng Đăng đông đúc, chật kín người về tham dự lễ hội độc đáo, đặc sắc của vùng biên. Lượng người và phương tiện đổ dồn về Đồng Đăng tăng đột biến, đông gấp nhiều lần so với những ngày thường. Đề phòng cháy nổ, Ban Quản lý đền Mẫu Đồng Đăng đã nghiêm cấm việc thắp hương (nhang) dâng lễ trong đền dịp lễ hội năm nay. Để đảm bảo an ninh trật tự cho lễ hội, ngành chức năng cũng đã bố trí lực lượng, phương tiện ứng trực, bảo vệ bình yên cho nhân dân vui mùa lễ hội.

Đền Mẫu là một ngôi đền cổ kính uy nghi nằm trên một quả núi, gần chợ Đồng Đăng. Đền Mẫu Đồng Đăng Lạng Sơn còn có tên “Đồng Đăng linh tự”, là nơi thờ Phật và Mẫu Bán thiên. Đây là một trong những nơi thờ tự nổi tiếng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam. Nằm ở trung tâm thị trấn Đồng Đăng, cách Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị khoảng 4km. Đây cũng là ngôi đền lớn có giá trị đặc biệt về kiến trúc, tín ngưỡng tôn giáo và lịch sử, là nơi nhân dân các dân tộc Lạng Sơn, du khách trong nước và quốc tế đến thờ cúng, sinh hoạt văn hóa tâm linh, nguyện cầu sự che chở của các đấng linh thiêng cho cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, qua đó gắn kết tinh thần cộng đồng và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.


Lễ hội Đồng Đăng trước đây được gọi là hội “Lồng tồng” – Hội xuống đồng. Nhưng nay đã có sự khác biệt, Đồng Đăng hiện đã trở thành thị trấn thương mại, dịch vụ và du lịch hết sức sôi động. Trong lễ hội diễn ra các hoạt động như: múa sư tử, võ dân tộc, văn nghệ, thể thao… Lễ hội không chỉ thu hút du khách trong nước mà còn thu hút đông đảo du khách nước bạn Trung Quốc đến thăm thân, xây đắp tình hữu nghị Việt – Trung, đồng thời là dịp để các chủ hàng, doanh nhân Trung Quốc, cùng nhiều tỉnh, thành nước ta đến gặp gỡ giao lưu, mở hướng liên kết làm ăn.

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019

Nét đẹp mộc mạc kì bí của Thung Nai

Được ví như “Hạ Long trên cạn”, Thung Nai - một địa danh không còn quá xa lạ đối với những ai yêu thích du lịch, yêu thích sự khám phá, trải nghiệm. Bởi lẽ, chỉ một lần đặt chân đến nơi này, ít ai có thể cưỡng lại trước vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc hòa quyện vào sự kỳ bí của núi non, sông nước, của những nét văn hóa Mường đậm đã bản sắc dân tộc giữa đại ngàn Tây Bắc.

Nơi giao hòa giữa thiên nhiên và con người

Đến Thung Nai mùa này, cảm nhận đầu tiên đó chính là sự thanh bình, yên ả, đâu đó từng vạt sương trắng bảng lảng, lẩn khuất cuốn vào vách núi, cánh rừng tạo nên một nét đẹp huyền bí và trầm mặc. Ngồi trên con thuyền nhỏ nhẹ nhàng rẽ nước giữa lòng sông, Thung Nai càng tạo nên nét đẹp khó cưỡng bởi làn nước xanh thẳm, bởi những cơn gió rừng rít nhè nhẹ tạt xuống mặt nước, thi thoảng những cơn gió ấy lại thốc thẳng vào mặt, vào người khiến cái lạnh trở nên tê tái hơn.


Mùa đông, có lẽ sẽ rất ít người tìm đến Thung Nai (huyện Cao Phong, Hòa Bình) để khám phá, hay trải nghiệm, nhưng tôi thì làm điều ngược lại. Vào mùa này, sông Đà càng trở nên trong xanh và phẳng lặng đến lạ kỳ. Cảnh sắc thiên nhiên hòa quyện giữa những ngọn đá núi, xen lẫn là những hòn đảo nhỏ được “mọc lên” giữa làn nước trong xanh, thơ mộng. Nhiều người từng chia sẻ, đến Thung Nai họ cảm nhận được sự thư thái, sự nhẹ nhàng và mộc mạc. Thiên nhiên và con người ở đây đều hoang sơ, nó thôi thúc bước chân người khách lãng du thêm thèm muốn kiếm tìm. Thậm chí, nhiều người còn ví von Thung Nai tựa như “cô gái Mường đang còn say giấc ngủ”.

Mong muốn đánh thức “cô gái Mường ngủ quên”, cũng giống như tôi, ngày càng nhiều du khách tour Thung Nai 1 ngày phương xa muốn tìm đến với Thung Nai, đến với lòng hồ sông Đà kỳ bí để trải nghiệm, để khám phá cuộc sống còn nguyên màu thiên nhiên hoang sơ mà hùng vỹ. Nhiều người đã chọn Thung Nai là điểm du lịch cuối tuần lý tưởng. Họ thường đến đây vào chiều thứ Sáu và ra về vào lúc hoàng hôn của ngày Chủ nhật. Như thế đã là thỏa cái thú khám phá, thư giãn, nghỉ ngơi. Để rồi chính từ sự tò mò, sự khám phá của du khách đã làm Thung Nai chuyển mình, như thể cô gái Mường “được đánh thức sau giấc ngủ dài”.

Sự thức giấc ấy qua lời kể của anh Bùi Văn Hải, một người dân bản địa lái đó chở khách du lịch tại Thung Nai chia sẻ, nhờ Thung Nai mà lòng hồ sông Đà được đánh thức và rồi người dân địa phương cũng được “đánh thức” theo. Ở đây, mọi người bắt đầu biết đến khái niệm thế nào là làm du lịch, thế nào là du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng… để rồi, nhiều gia đình bao năm vẫn miệt mài thả lưới, bắt cá, hay lên rừng làm nương phát rẫy, thì giờ đây không ít người đã đổi nghề chuyển hẳn sang làm du lịch.


Trong cái gió lạnh thổi táp vào mặt giữa lòng sông Đà, khung cảnh Thung Nai đẹp như một bức tranh vẽ hiện lên trước chúng tôi. Con thuyền nhỏ được anh Hải điều khiển rẽ nước chạy qua các dãy núi trùng điệp, trong lòng hồ, nhiều hòn đá nhỏ nhấp nhô hiện lên trên mặt nước tạo thành những “hòn đảo” lớn nhỏ, tạo nên kiệt tác thiên nhiên hùng vỹ giữa đại ngàn, bởi thế, nhiều người ưu ái đặt cho Thung Nai cái tên thơ mộng “Hạ Long trên cạn” giữa đại ngàn Tây Bắc.

Kiệt tác giữa đại ngàn

Để khám phá hết vẻ đẹp của Thung Nai, không có con đường nào khác buộc chúng tôi phải di chuyển bằng thuyền. Ở đây, từ bao đời người dân vẫn gắn bó với sông nước, với những con thuyền độc mộc mưu sinh giữa lòng sông Đà hùng vỹ và giờ đây vẫn những nét mộc mạc ấy, những con thuyền nhỏ lại tất bật đón đưa du khách khám phá vùng “Hạ Long giữa đại ngàn”.

Nhẹ nhàng rẽ làn nước xanh biếc, con thuyền tiếp tục đưa chúng tôi vượt qua những “hòn đảo” lô nhô, nơi được ví như tuyệt tác mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất đại ngàn Tây Bắc, điểm đặt chân tiếp theo trong hành trình khám phá Thung Nai đó chính là 2 ngôi đền thờ Chúa Thác Bờ. Hai ngôi đền được dựng lên ở hai bên bờ sông thuộc địa phận huyện Cao Phong và huyện Đà Bắc. Tại đây, một điểm kỳ bí nữa được hé lộ đó chính là nơi hiện hữu tín ngưỡng văn hóa hầu Đồng, một trong những nét văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Theo lời anh Hải, vào những ngày đầu xuân du khách tour du xuân 2019 khắp nơi tìm đến thăm thú và trẩy hội Đền Bờ rất nhiều, đặc biệt là những đồng cô, đồng cậu. Tương truyền, hai ngôi đền này đều thờ Bà chúa Thác Bờ linh thiêng. Chuyện kể rằng, vào năm 1431, Vua Lê Thái Tổ đem quân đi đánh giặc ở Đèo Cát Hãn (tỉnh Sơn La ngày nay), khi đến khu vực Thác Bờ, đoạn con sông Đà chảy qua xã Thung Nai, dòng nước chảy xiết, nhiều mỏm đá lớn nhấp nhô khiến quân sĩ của nhà vua không thể vượt qua. Lúc đó, hai người phụ nữ dân tộc Mường là bà Đinh Thị Vân và một người phụ nữ dân tộc Dao đã vận động người dân địa phương lên rừng xẻ gỗ đóng thuyền, bè giúp quân sĩ của nhà vua vượt sông đánh giặc.


Sau khi mất, 2 bà hiển linh giúp dân vượt sông an toàn nên người dân địa phương đã lập hai ngôi đền thờ và tôn hai bà làm bà Chúa Thác Bờ. Để đến được đền Chúa Thác Bờ, không có đường đi bộ mà thuyền đưa chúng tôi sát đến chân đền. Vào mùa này nước lên, việc lên đền cũng thuận lợi hơn rất nhiều. Từ đền Chúa Thác Bờ, phóng tầm mắt ra xa là thấy cả một vùng lòng hồ sông Đà mênh mông và thơ mộng. Tại đây, chỉ cần di chuyển mất 10 phút đi thuyền, chúng tôi tiếp tục đến động Thác Bờ.

Động là sự kết hợp hoàn hảo của sông hồ và đá núi, động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào động có thể thưởng ngoạn

Hàng đàn cá măng nhỏ xinh bơi lội tung tăng trong làn nước trong vắt. Với những hình ảnh ấy, theo cảm nhận của chúng tôi, Thung Nai thực sự không thích hợp với những trò giải trí ồn ào và quá rầm rộ, thay vào đó là những phút giây tĩnh lặng để có thể thư giãn bên người thân, bạn bè, để hòa mình vào cái không khí trong lành của thiên nhiên, của núi rừng. Như theo chia sẻ của anh Hải người chủ đò và cũng kiêm luôn hướng dẫn viên du lịch, Thung Nai không chỉ đẹp bởi cảnh vật, con người, mà ngay tại nơi này một vẻ đẹp khác lạ được vẽ lên qua phiên chợ sông Thác Bờ khiến không ít người phải ngẩn ngơ. Chợ sông chỉ họp vào buổi sáng Chủ nhật nhưng cũng tan khá sớm. Do vậy, để có thể khám phá được hết vẻ đẹp của phiên chợ sông này, chúng ta phải đến rất sớm để có thể chứng kiến hình ảnh thuyền, đò tấp nập buôn bán những sản vật mà họ đánh bắt được.

Thung Nai, cái tên mới nghe đã khiến nhiều người phải tò mò mặc dù cách Hà Nội chỉ khoảng 100km, đặc biệt địa danh được ví như “Hạ Long trên cạn” này mùa nào cũng đẹp và lãng mạn. Đẹp nhất vào những ngày Rằm, trăng tròn vành vạnh. Khi đó, chúng ta có thể ngắm ánh trăng dịu dàng soi bóng xuống mặt hồ vào ban đêm tĩnh mịch, hay hòa mình vào đêm lửa trại bập bùng cùng tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng. Trong hơi men chếnh choáng của rượu cần, của những điệu múa xòe, hát đúm đến say lòng người… Thung Nai càng trở nên thơ mộng, khoáng đạt và kỳ vỹ.

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2019

Điểm danh những ngôi chùa linh thiêng nhất đất Cảng

Hải Phòng từ lâu luôn được coi là mảnh đất địa linh nhân kiệt với những ngôi chùa có lịch sử hàng trăm năm, những điểm du lịch tâm linh độc đáo và ý nghĩa. Năm mới đang đến gần, đây là dịp để mọi người cầu bình an, may mắn cho những người thân trong gia đình, vì vậy, các bạn Hải Phòng đừng quên những ngôi chùa linh thiêng bậc nhất không thể không đến vào dịp du xuân đầu năm.

 1. Đền Nghè (Quận Lê Chân)

Đền Nghè tức An Biên cổ miếu toạ lạc ở phố Lê Chân, phường An Biên, quận Lê Chân, Hải Phòng. Đền Nghè hiện nay được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XX, là di tích lịch sử cấp quốc gia được Nhà nước xếp hạng vào năm 1975.


Theo PV, đền Nghè thờ nữ tướng Lê Chân – vị tướng tài ba trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỷ 1 (40 - 43) – người đã đến vùng đất ngã ba sông Tam Bạc – sông Cấm lập ấp Vẻn, sau đổi là An Biên Trang, tiền thân của TP. Hải Phòng ngày nay.

Đến thăm đền Nghè, ngoài việc tham quan quần thể kiến trúc độc đáo của đền, du khách tour du xuân 2019 còn được chiêm ngưỡng nhiều tác phẩm điêu khắc đá có giá trị, điển hình là khánh đá và sập đá. Khánh được làm từ một tấm đá nguyên khối dày 5cm, cao 1m, rộng 1,6m. Mặt trước khánh khắc nổi 2 con rồng chầu mặt nguyệt và mây bay xung quanh; mặt sau khắc hình mây bay và sóng nước. Khi gõ, tiếng khánh đá ngân vang, trong trẻo, hướng ta tới cõi tâm linh huyền ảo, linh thiêng. Sập đá đồ sộ, tạo bằng khối đá liền, chạm nổi hình chim, thú, hoa, lá rất công phu thể hiện kỹ thuật chạm khắc vô cùng tinh xảo của các nghệ nhân xưa. Ngoài ra, ở đền còn lưu giữ tấm bia đá có kích thước lớn được tạc vào thời Nguyễn, ghi tiểu sử của nữ tướng Lê Chân.

Cách đền Nghè khoảng hơn 100m về phía Tây Bắc là tượng đài nữ tướng Lê Chân được đúc bằng đồng, cao 7,5m, nặng 19 tấn, đặt tại vườn hoa trung tâm thành phố. Tượng được khởi công xây dựng vào tháng 11/1999 và khánh thành vào ngày 31/12/2000. Năm 1975, đền Nghè được Nhà nước xếp hạng di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia.

2. Chùa Dư Hàng (Quận Lê Chân)


Theo PV, chùa Dư Hàng (tên chữ là Phúc Lâm tự) được xây dựng từ thời Tiền Lê (980-1009) theo kiến trúc cổ với tam quan, Phật điện, nhà Tổ, nhà thờ Mẫu, nhà phương trượng, tăng xá. Cuối thời Vua Lê Đại Hành đã có vị sư tổ đến đây thuyết pháp, khai sáng giáo lý nhà Phật. Đến thời Trần (1225-1400), các vị sư tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân Tông sáng lập cũng đã có mối quan hệ với chùa. Vào các đời Vua Lê Gia Tông (năm 1672) và Vua Thành Thái nhà Nguyễn (năm 1899), chùa được trùng tu lại, bổ sung thêm gác chuông. Năm 1917, chùa được xây thêm thư các, vườn tượng, sửa sang vườn tháp và kiến trúc chùa được duy trì cho tới ngày nay.

Chùa Dư Hàng Hải Phòng có kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh”, hai bên là nhà tổ, đằng trước có tam quan rất đẹp. Qua tam quan chùa sẽ tới tòa Phật điện 7 gian với những hàng cột lim lớn đã ngả màu. Bên trong tòa Phật điện được trang trí bởi nhiều bức hoành phi, câu đối, cửa võng sơn son, thếp vàng rực rỡ. Gian tiền đường của tòa Phật điện được trang trí bằng nhiều mảng chạm khắc nổi trên cửa võng với nhiều mảng đề tài quen thuộc mang phong cách nghệ thuật triều Nguyễn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như: mai điểu, ngũ phúc, rồng mây, hộp hình khắc gỗ mô tả cảnh thầy trò Đường Tăng trên đường sang Tây Trúc thỉnh kinh. Tại đây hiện còn lưu giữ được nhiều pho tượng Phật cổ có giá trị với tạo hình chuẩn xác và kỹ thuật tinh xảo như: bộ Tam thế, tòa Cửu Long - Thích Ca sơ sinh, hộ thiện, trừ ác, bộ tượng “Thập điện minh vương”, tượng Hộ Pháp, tượng Trúc Lâm Tam Tổ...

Chùa có một gác chuông 5 gian 3 tầng, mái đao cong vút, bên trong treo một quả chuông đồng cỡ lớn có đề chữ “Phúc Lâm tự chung” (chuông chùa Phúc Lâm). Từ gác chuông qua 1 cái sân rộng, bên phải là 5 gian nhà Tổ, nhà thọ trai, nhà ngang và bên trái là 5 gian nhà hậu sẽ tới tiền đường 7 gian dựng theo kiểu vì kèo giá chiêng. Ở sân trước tiền đường có đặt một đỉnh lớn bằng đồng hun. Năm gian thượng điện cũng được dựng bằng gỗ, có những vì kèo chạm trổ tinh tế.

Nằm phía bên phải tam quan, vườn tượng của chùa chính là một tuyệt tác nghệ thuật với 12 pho tượng được chạm khắc tinh xảo, bố trí đẹp mắt quanh một hồ nước rộng. Nổi bật nhất là tượng Phật Tổ màu vàng ngồi trên tòa sen dưới cây bồ đề cao lớn tỏa bóng mát và tượng Phật Di Lặc trong tư thế đang đứng được đặt đối diện nhau ở hai bên hồ. Cả hai pho tượng đều được đúc bằng đồng. Xung quanh hồ đặt tượng của 10 vị Tôn giả được tạc bằng đá trắng trong các tư thế và hình dáng khác nhau.

Khu vườn tháp của chùa bao gồm 11 tháp được xây bằng đá và gạch, là nơi đặt di thể của các vị sư tổ đã viên tịch tại chùa, các vị tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và nhiều vị hòa thượng đã từng trụ trì tại chùa. Hiện nay, chùa Dư Hàng còn lưu giữ nhiều di vật quí giá như: chuông, khánh, đỉnh đồng, đồ trang trí mỹ thuật bằng gốm sứ, đá xanh và đặc biệt là bộ sách kinh Tràng A Hàm là tài liệu cổ về giáo lý đạo Phật được lưu truyền từ nhiều đời sư trụ trì.

3. Chùa Tháp Tường Long (Quận Đồ Sơn)


Chùa Tháp Tường Long là một ngôi chùa có từ thời nhà Lý (1010 – 1225), nằm trên bãi đất rộng khoảng 2.000 m2, trên đỉnh núi Ngọc, thuộc địa phận phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn. Trải qua biến cố thăng trầm của thời gian và lịch sử, chùa đã bị xuống cấp nghiêm trọng.

Sau nhiều lần trung tu, sửa chữa, cụm chùa Tháp tọa lạc trên mặt bằng gần 2000 m2 ở đỉnh núi Ngọc, với 20 pho tượng đồng nặng hơn 20 tấn được đặt trong nhà Tam bảo.

Đặc biệt, ở chùa có chuông nặng 1000 kg mô phỏng chuông chùa Vân Bản của Đồ Sơn, được đúc trực tiếp trên đỉnh núi Ngọc. Phần móng của tháp Tường Long với kiến trúc 9 tầng cũng được hoàn thiện. Bên cạnh đó là nhà che bia và che hố khảo cổ 2 tầng, nơi lưu giữ nhiều hiện vật vô cùng giá trị với các chi tiết, nguyên liệu, hoa văn làm từ gỗ, đá, ngói, gạch từ thời Lý.

4. Chùa Đỏ (Quận Ngô Quyền)


Chùa Đỏ nằm ở ngõ 286 Lê Lai, phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. Ngôi chùa cổ Linh Độ tự – tên thường gọi là chùa Đỏ đã được sửa chữa nhiều lần với quy mô ngày một mở mang. Theo bia ký của chùa hiện còn ghi việc sửa chữa lớn vào năm Đinh Dậu – Quý Mão (1717-1723) đời vua Lê Dụ Tông và trùng tu năm Tự Đức 32.

Chùa Đỏ có kiến trúc độc đáo chưa từng có trong lịch sử kiến trúc chùa chiền Việt Nam: Kiến trúc cổ diêm chồng đấu có 3 tầng 20 mái, mối liên hệ giữa Tiền đường – trung đường và hậu cung đã xử lý hai mái giao nhau, tạo ra sự hòa quyện giữa các khu, liên kết khéo léo các khu lại tạo ra hình khối liên kết nguy nga, hoành tráng.

5. Chùa Cao Linh (Huyện An Dương)


Chùa Cao Linh nằm ở phía Tây thành phố Hải Phòng, thuộc địa phận thôn Bắc Hà, xã Bắc Sơn, huyện An Dương. Theo lịch sử ghi lại, chùa Cao Linh được dòng họ Lê Văn trong làng Hà Liên xây dựng vào năm nào không rõ, nhưng chỉ biết trong bia đá của chùa có ghi lại niên hiệu trùng tu vào đời Hậu Lê, cách chúng ta hiện nay khoảng chừng hơn 300 năm.

Khuôn viên Chùa Cao Linh hiện nay có diện tích 49.000m2. Trải qua nhiều năm tu sửa và xây dựng, chùa Cao Linh hiện là một trong những ngôi chùa đẹp bậc nhất tại Hải Phòng.

Với đường nét xây dựng độc đáo, nghệ thuật kiến trúc đậm đà bản sắc văn hóa Phật Giáo, chùa là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của những người con Phật trong khắp nội, ngoại thành phố, là điểm tham quan du lịch của các du khách trong và ngoài nước, đồng thời cũng là điểm nhấn nổi bật trong toàn cảnh khu danh thắng du lịch nổi tiếng Núi Voi .

Thứ Ba, 11 tháng 12, 2018

Không khí rộn ràng của Đường Lâm ngày cuối năm

Những ngày cuối năm, làng cổ Đường Lâm nhộn nhịp không khí Tết. Nhà nhà, người người nô nức sắm sang cho cái Tết đoàn viên, no ấm.

Giữa bộn bề, nhộn nhịp của nhịp sống thị thành, ngôi làng cổ ở Sơn Tây có tuổi đời vài trăm năm tuổi này vẫn giữ được những nét u tịch, trầm mặc. Những ngôi nhà cổ dù ít hẳn, thay thế bằng những ngôi nhà tầng khang trang, to đẹp, cái hồn cốt của người dân xứ Đoài vẫn đượm nét. Chiếc cổng gỗ cũ mòn, những bờ tường đá ong phủ đầy rêu phong hay cây đa hơn 300 tuổi đầu làng vẫn sừng sững đứng cho thấy theo thời gian, có thể nhiều giá trị xưa bị mai một nhưng không dễ gì bị mất đi.


Không khí làng cổ Đường Lâm những ngày giáp Tết dường như cũng tất bật, nhộn nhịp hơn. Phiên chợ quê ngay cổng chùa Mía họp từ sáng sớm khi làn sương còn mờ mờ, ảo ảo đến 12h trưa vẫn còn khách. Người ta bày bán đủ thứ nhu yếu phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, nhưng ngày Tết còn có những món hàng đặc trưng hơn. Đó là những cây giang, bó lá rong chuẩn bị cho nồi bánh trưng Tết. Đó là những củ hành trắng, hành tía được bày bán khắp nơi.

Với những người dân quê, bánh chưng, dưa hành chưa bao giờ thiếu trong ngày Tết. Đó còn là những chậu hoa Tết đang chúm chím sắc xuân với đủ loại màu sắc, chủng loại như thược dược, cúc vàng, đồng tiền, cẩm chướng... Tất cả đều đang ở độ phơi phới, chờ xuân về để thêm thắm sắc. Không chỉ người dân địa phương mà khách du lịch đến từ khắp nơi, cả khách nước ngoài đặc biệt thích thú khi chiêm ngưỡng quầy bán hoa của người dân địa phương. Đắt hàng hơn cả đó là loài mai trắng, tán nhỏ mang đủ các dáng, thế. Những cánh mai phơn phớt hồng nơi đầu cánh được bày bán khắp bên ngoài cổng chùa Mía, và tập kết trong sân chùa.


Trong những nếp nhà cổ, không khí Tết cũng rộn ràng. Bên bình trà xanh còn bốc khói nghi ngút, ngôi nhà cổ có tuổi đời hơn 250 năm của ông Kiều Anh Ban cũng trở nên ấm áp hơn. Nếp nhà thuần Việt 5 gian, 2 trái được làm hoàn toàn bằng gỗ vẫn giữ được nét cổ kính, thâm trầm. Hiên nhà với những cột, kèo được chạm khắc tinh xảo. Bên trong nhà, gian thờ ở gian chính giữa ngôi nhà với khám thờ, các vật thờ cúng được gia đình giữ vẹn nguyên. Nhiều đồ thờ như đôi lục bình, chiếc đĩa cổ... có tuổi đời vài trăm năm. Chủ nhà trầm ngâm kể câu chuyện về việc xây ngôi nhà, về bức hoành phi, những câu đối hay các họa tiết cổ do các cụ để lại với tâm trạng đầy tự hào. Không khó để bắt gặp hình ảnh những lu tương nếp bằng sành được bày biện ngay ngắn ngay trước nhà. Những chai tương vốn là đặc sản nổi tiếng xứ Đường Lâm luôn khiến du khách khi ghé thăm ai ai cũng phải nếm thử.

Những ngày giáp Tết, nhà nhà đều nô nức chuẩn bị những mẻ chè lam, kẹo lạc, kẹo dồi chó, bỏng gạo mới. Tất cả đều được làm thủ công bằng tay với những nguyên liệu thuần chất do chính người dân làm ra. Đó là gạp nếp, gạo tẻ, là mạch nha, gừng cay... Những thứ tưởng chừng có thể bắt gặp ở bất cứ làng quê nào nhưng ở Đường Lâm, qua bàn tay của người dân chúng trở thành những đặc sản mà khách phương xa đến, đều thích thú.


Những ngôi chùa, đình, đền ở Đường Lâm cũng tấp nập du khách tour lễ hội 2019 thập phương ghé thăm. Họ cùng nhau thắp một nén hương, dâng lên đóa hoa, những đồ lễ để cảm tạ thần phật đã cho một năm may mắn, hạnh phúc. Tục đi tạ lễ những ngày cuối năm vốn rất phổ biến ở các chùa chiền miền Bắc thì về với Đường Lâm, nét văn hóa ấy càng sinh động hơn. Trong nghi ngút khói hương, lòng người như cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn gạt đi những loa toan cuộc sống bên ngoài kia. Ghé Đường Lâm ngoài đình Mông Phụ, chùa Mía, đền bà chúa Mía, du khách thường không thể bỏ qua lăng Ngô Quyền và đền thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Được mệnh danh là đất hai vua, qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm cùng lịch sử, những di tích ấy vẫn còn được giữ lại khá vẹn nguyên. Câu chuyện với những ông từ giữ đền, giữ chùa càng cho ta thêm hiểu về nét văn hóa đậm nét xứ Đoài.

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2018

Thưởng ngoạn cảnh thế ngoạn mục của Đền Hùng

Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Phía đông với các dãy núi non trung điệp. Vùng đất này có nhiều sông ngòi ao hồ, đồi núi, lại có những cánh đồng màu mỡ phì nhiêu do phù xa của ba con sông bồi đắp, vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh định cư, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ hay rút lui khi xảy ra các cuộc xung đột bộ lạc.

Hiện nay dấu vết cư trú của dân cư thời đại các vua Hùng còn để lại trong hàng chục di chỉ khảo cổ học, được phân bố dày đặc từ huyện Lâm Thao tới ngã ba Bạch Hạc – Việt Trì. Những di chỉ khảo cổ học đo là minh chứng một thời đại, với nghề luyện kim đồng thau và trồng lúa nước của một nền văn minh nông nghiệp, đã từng tồn tại trược công nguyên hàng nghìn năm.


Đền Hùng là trung tâm, là tiêu điểm về thời đại các vua Hùng, các ngôi đền thờ vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh (còn gọi là núi Cả theo địa phương hay các tên khác: núi Hùng, núi Hy Cương), có độ cao 175 mét so với mặt nước biển. Trước kia khu vực này là cánh rừng già nhiệt đới. Ngày nay núi Hùng vẫn giữ dáng vẻ của rừng tự nhiên với nhiều thế hệ cây tầng khác nhau, gồm 150 loài thảo mộc, thuộc 35 họ, trong đó còn lại một số cây đại thụ lớn như: đa, thông, thiên tuế, trò v.v…

Núi Hùng trông xa giống như đầu của một con rồng lớn hướng về Nam, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo. Phía sau núi Hùng có những quả đồi lớn san sát nối liền dài tới 10km giống như đàn voi chầu về Đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch Hạc với sự hợp lưu của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc: sông Hồng, sông Lô, sông Đà tạo ra một vùng nước lớn mênh mông, từ đó có những quả đồi thấp lô nhô giống như một đàn rùa nước bò lên trầu về Nghĩa Lĩnh. Phía Đông xa mờ là dãy Tam Đảo trùng điệp (núi mẹ), xa về phía nam là dãy Ba Vì cao ngất (núi cha) tụ lại. Sát núi Hùng còn có những quả đồi như phượng cặp như (Tiên Kiên), hổ phục (Khang Phụ – Chu Hoá). Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ tụ hội. Đứng trên đỉnh cao Nghĩa Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một vùng rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thuỷ hữu tình. Tương truyền vua Hùng đã đi khắp mọi miền, về đây chọn làm đất đóng đô

Lịch sử ngày Giỗ Tổ Hùng Vương

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”

Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.


Từ  xa xưa lễ hội Đền Hùng đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người Việt Nam. Trong ngọc phả Hùng Vương (1470) đã chép “Từ đời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa (Cổ tích), ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của đấng Thánh Tổ Xưa”.

Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917) tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ lễ định ngày mùng mười tháng ba âm lịch hàng năm làm ngày quốc tế (tức trước ngày Giỗ Tổ Hùng Vương một ngày, còn ngày giỗ Tổ 11 tháng 3 âm lịch do dân sở tại làm lễ).

Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều về thăm viếng.

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018

Những nét thú vị hấp dẫn của khu du lịch Tràng An

Tràng An nằm không quá xa Hà Nội, nên bạn có thể thực hiện một hành trình dài 2 ngày 1 đêm hoặc đi trong ngày cũng đều phù hợp.

Chỉ nằm cách Hà Nội chừng 90km, nên việc di chuyển đến Tràng An cũng khá dễ dàng chỉ mất gần 2 tiếng đồng hồ. Hành trình dài 2 ngày 1 đêm hoặc đi trong ngày cũng đều phù hợp.

Thêm vào đó, du khách tour Bái Đính Tràng An 1 ngày có thể để trẻ vui chơi, tìm hiểu tham quan làng thổ dân nằm cách Tràng An 100m, nơi được phục dựng nguyên mẫu giống như trong bộ phim bom tấn của Mỹ "Kong:Skull Island".


Di chuyển đến Tràng An như thế nào?

Từ Hà Nội có rất nhiều phương tiện để bạn lựa chọn, tuy nhiên xe khách hoặc ô tô tự lái sẽ phù hợp hơn cả.

Phương tiện xe khách: Bạn có thể đón ô tô khách từ các bến xe Mỹ Đình, Giáp Bát, Nước Ngầm với giá vé 70.000 - 80.000 đồng/ chặng/ người. Tại đây, có rất nhiều chuyến xe theo nhiều giờ để bạn lựa chọn. Tuy nhiên, nếu muốn đi trong ngày, bạn nên lựa chọn chuyến xe sớm vào lúc 7h.

Phương tiện xe ô tô tự lái: Từ trung tâm Hà Nội bạn đi theo hướng Pháp Vân - Cầu Giẽ đến quốc lộ 1 A và di chuyển đến thành phố Ninh Bình. Thời gian di chuyển không quá 90 phút.

Lưu ý: Khi đến bến xe thành phố Ninh Bình, bạn nên di chuyển tiếp bằng taxi, giá xe chỉ tầm 70.000 - 80.000 đồng/ lượt.

Điểm tham quan vui chơi ở Tràng An


Khi vào khu du lịch Tràng An, bạn ra quầy để mua vé, giá vé người lớn là 200.000 đồng/ khách, trẻ em dưới 1m40 là 100.000 đồng và nếu bạn thuê hướng dẫn viên đi cùng sẽ mất phí 300.000 đồng/ tour. Nếu sang khu vực Tràng An cổ thì giá vé là 45.000 đồng/ người.

Du khách du lịch Ninh Bình sẽ được đi thuyền và tham quan 12 hang động xuôi theo dòng suối bao gồm các hang: Hang Sáng, hang Tối, hang Địa linh, hang Nấu Rượu, hang Sính, hang Si, hang Ba Giot, hang Khống… Tham quan các đền chùa ở Tràng An như: Đền Trình, Đền Trần, Phủ Khống…

Buổi chiều bạn có thể dẫn các bé tham quan ngôi làng thổ dân, chỉ cách đó chừng 100m. Tại đây có đến 40 chiếc lều hình chóp, mô phỏng lại nguyên mẫu như trong bối cảnh phim Kong: Skull Island.

Bối cảnh ở đây rất đa dạng còn có các thuyền gỗ dài giống như thuyền mà thổ dân hay sử dụng, có các giá treo bằng tre như người dân vùng biển dùng để treo cá, phơi cá...Đây không chỉ là một điểm tham quan hấp dẫn mà còn là nơi để các bé tìm hiểu và học hỏi những điều thú vị.

Ăn uống tại Tràng An

Đi cùng trẻ nhỏ, ngoài việc chủ động chuẩn bị một số đồ ăn vặt thì bạn cũng nên lưu ý lựa chọn những quán ăn gần khu vực hang động Tràng An để tránh việc di chuyển nhiều sẽ khiến các bé mệt.


Một số gợi ý như: Nhà hàng Trung Tuyết, Bảo Anh, Lạc Hồng, Đức Minh...Ở đây ngoài những món ăn đặc sản của Ninh Bình như cơm cháy, dê xào...thì còn có nhiều món ăn phù hợp với trẻ như cháo gà, bún, phở...

Tràng An là một danh thắng du lịch nổi tiếng nên có đầy đủ các dịch vụ lưu trú cần thiết, từ khách sạn, nhà nghỉ tới homestay. Tùy vào số lượng người và mức chi phí mà bạn có thể lựa chọn dạng phòng phù hợp. Giá một phòng đôi trung bình tại đây từ 350.000 - 500.000 đồng/ đêm.

Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018

Căng Bắc Mê - Di tích xúc động của Hà Giang

rong kháng chiến chống Pháp, Căng Bắc Mê là địa bàn căn cứ đóng quân và quan sát, Pháp cho xây Căng Bắc Mê làm trại binh. Những năm 1939 đến 1942, nơi đây còn trở thành nhà tù giam giữ các đồng chí cộng sản. Thời bình, Căng Bắc Mê là một di tích lịch sử quan trọng của Hà Gian. Vì thế, nếu bạn đi du lịch Hà Giang, nhớ ghé đến tham quan Di tích Căng Bắc Mê quan trọng này.

Tên Căng Bắc Mê có nguồn gốc xuất thân như sau: “Căng” trong tiếng Pháp có nghĩa là đồn, trại lính, Bắc Mê là tiếng địa phương Pác Mìa, có nghĩa là cửa ngòi. Vì vậy, Căng Bắc Mê được hiểu là nơi đóng trại của lính. Pháp đặt chốt quan sát ở vị trí thuận lợi này sẽ kiểm soát 3 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng.


Đến tham quan Di tích Căng Bắc Mê bạn sẽ đi qua cổng vào khá cao ráo, chắn chắn. Trung tâm của khu di tích là một hệ thống tường thành bao bọc. Tường thành dài 190m, dày 40 cm, cao 2m xây dựng kiên cố và cẩn mật. Xung quanh tường thành có rất nhiều lỗ châu mai, lỗ lỗ châu mai cách nhau từ 5 đến 10m.

Du khách du lich Ha Giang 3 ngay 2 dem bước vào bên trong khu Di tích Căng Bắc Mê sẽ thấy các đồn bót, vọng gác, nhà thông tin và nhà giam để giam giữ các tù nhân chính trị của ta. Ý nghĩa to lớn của Di tích Căng Bắc Mê chính là trung tâm giáo dục chính trị. Đây là nơi tuyên truyền và giáo dục ý thức cách mạng. Những tháng ngày bị giam cầm ấy, dù bị tra tấn hết sức dã man, tàn độc, bị đày khổ sai, lao động nhưng những chiến sĩ cách mạng vẫn một lòng ngoan cường chiến đấu. Tại nơi đây, các người tù vẫn truyền tai nhau, tiếp lửa cùng nhau để giữ vững tinh thần đấu tranh kiên cường chống lại thực dân.

Di tích Căng Bắc Mê hiện nay không còn nguyên vẹn như trước. Những căn nhà đã bị phá hủy nhiều, nay chỉ còn lại vết tích của móng và vài hàng gạch phủ màu rêu phong. Địa phương đã cố gắng cho trùng tu, tôn tạo để bảo vệ Di tích Căng Bắc Mê.


Du khách tour Hà Giang đến tham quan khu Di tích Căng Bắc Mê, ngoài việc biết thêm về điểm du lịch Hà Giang quan trọng này, còn có dịp xem lại những vết tích chiến tranh vẫn còn đó. Du khách còn cảm nhận được thêm một rõ những sự gian lao, vất vả, mà ông cha ta đã hy sinh để bảo vệ từng tấc đất nước nhà. Cho đến thời điểm này, điểm đến như Căng Bắc Mê, vẫn còn nguyên những giá trị lớn lao, về lòng dũng cảm, về lòng yêu nước của các thế hệ trước và khơi gợi cả niềm xúc động lẫn lòng biết ơn những người đã xả thân vì Tổ quốc, của các thế hệ sau này.